GIA

PHẢ

TỘC

HẬU
DUỆ
VUA
GIA
LONG-Cà
Mau
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: THẾ TÔNG HIẾU VŨ HOÀNG ĐẾ Nguyễn Phúc Khoát(1675-1725)-Hệ
Đời thứ: 24
Người trong gia đình
Tên ĐỨCHƯNGTỔ HIẾUKHANGHOÀNG ĐẾ Nguyễn Phúc Côn-hệ
Tên thường
Tên Tự
Ngày sinh
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

DỨC HƯNG TỔ HIẾU KHANG HOÀNG ĐẾ
HÚY
NGUYỄN  PHÚC CÔN

(1733 - 1765)

Hệ X


10.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

        Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Côn, con thứ hai của Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát và Hoàng Hậu Trương Thị Dung. Ngài sinh ngày 29 tháng 4 năm Quí sửu (11-6-1733).

        Khi Thế tử Nguyễn Phúc Hạo, đức Hiếu Vũ có ý định truyền ngôi cho ngài. Đức Hiếu Vũ giao Ngài cho Ý Đức Hầu Trương Văn Hạnh và Thị giảng Lê Cao Kỷ chăm lo dạy dỗ. Ngài vốn thông minh và có nhiều đức tính. Ban đầu ngài được phong chức Chưởng cơ. Những buổi họp quan trọng trong triều ngài đều được tham dự để am hiểu sự tình trong nước.

        Năm Ất dậu (1765), đức Hiếu Vũ băng, để lại di chiếu truyền ngôi cho ngài. Vì muốn chuyên quyền, Trương Phúc Loan mật bàn với Thái giám Chữ Đức và Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thống đổi di chiếu, đưa con thứ 16 của đức Hiếu Vũ là Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi lên kế nghiệp. Ý Đức Hầu và Thị giảng đều bị Trương Phúc Loan giết hại. Ngài bị giam vào ngục.

        Ngài lo buồn, bị bệnh và về phủ đệ thì mất ngày 10 tháng 9 năm Ất dậu (24-10-1765), hưởng dương 33 tuổi.

*
* *

        Đức Hưng Tổ sống trong thời kỳ mà triều đình miền Nam bắt đầu suy tàn. Tuy được di chiếu của đức Vũ Vương để lại truyền ngôi cho ngài nhưng ngài chưa trị vì ngày nào. Sự lộng quyền của gian thần đã làm dân chúng căm phẫn và đưa đến sự sụp đổ của một triều đại. Song Ân đức của các Chúa Nguyễn đã thấm nhuần vào lòng dân miền Nam, truyền từ đời này qua đời khác, nhờ đó mà con của ngài là đức Nguyễn Phúc Ánh - được sự ủng hộ của toàn dân - sau một thời gian bôn ba, đã thâu tóm giang san về một mối, mở ra một trang sử mới cho nước nhà.

10.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

        Ngài mất, lăng táng tại xã Cư Chính (Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Cơ Thánh, mặt sau dựa vào núi, mặt trước nhìn ra sông. Năm Canh tuất (1790) quân Tây Sơn quật hài cốt ngào đổ xuống sông phía trước mặt. Một ngư dân tên Nguyễn Ngọc Huyên (1) và con lặn hài cốt đem lên chôn chỗ khác. Đến đời vua Gia Long, do Nguyễn Ngọc Huyên chỉ chỗ, hài cốt được đưa về táng chỗ cũ. Lăng được xây lớn hơn trước.

        Năm Canh tý (1780), Nhiếp Chính Vương Nguyễn Phúc Anh lên ngôi, truy tôn ngài tước : "Từ Tường Đạm Bạc Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang Vương". Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn ngài : "Nhân Minh Cẩn Hậu Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang Hoàng Đế". Năm Tân tỵ (1821), vua Minh Mạng choxây Hưng Miếu (ở phía sau Thế Miếu) để thờ ngài , và dân miếu hiệu là Hưng Tổ.

10.3 - GIA ĐÌNH

    10.3.1. Hậu và phi

       10.3.1.1 Nguyễn Thị Hoàn
                   
Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Hậu

        Bà húy là Nguyễn Thị Hoàn, người làng Minh Linh tỉnh Thừa Thiên. Ngày tháng Năm sinh không rõ. Bà là con của Diễn Quốc công Nguyễn Phúc Trung, bà mẹ họ Phùng (không rõ tên).

        Năm Kỷ hợi (1779), khi quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân, bà ra ở ẩn tại làng An Du, nơi quê ngoại. Khi đức Thề Tổ khôi phục được đất Gia Định, được các tướng tôn làm Đại Nguyên Súy Nhiếp Quốc Chính, bà được rước vào Gia Định và được tôn làm Quốc mẫu. Khi quân Tây Sơn tấn công Sài Côn (Sài Gòn) bà và đức Thế Tổ phải chạy ra Phú Quốc. Địch lại tiến đánh Phú Quốc, đức Thế Tổ phải chạy ra Côn Lôn, thuyền trôi dạt trên biển mấy ngày, khổ cực đáng cay muôn vàn. May nhờ gặp được nguồn nước ngọt ở giữa biển, đức Thế Tổ mới thoát nạn. Khi đức Thế Tổ về lại Phú Quốc, thuật lại sự tình khốn đốn vừa qua, bà bảo rằng : "Giữa biển lại có nước ngọt, thế là trời giúp chúng ta, con chớ nên lấy sự khó nhọc làm nản chí." Đức Thế Tổ lạy tạ và nói rằng : "Con kính cẩn tuân lời mẹ dạy". Năm Ất tỵ (1785) bà phải lánh sang Xiêm. Năm Đinh mùi (1787), bà trở về Phú Quốc. Năm Mậu thân (1788), bà về lại Gia Định. Mùa đông tháng 10 năm Bính thìn (1796), đức Thế Tổ dẫn quần thần mang kim sách, kim bửu dân lên, tôn bà làm Quốc mẫu Vương thái phi. Năm Nhâm tuất (1802), bà được phụng nghinh về kinh thành. Năm Quí hợi (1803), đức Thế Tổ tôn bà làm Vương thái hậu và cho xây cung Trường Thọ để bà ở. Năm Bính dần (1806) đức Thế Tổ lên ngôi Hoàng Đế, tôn bà làm Hoàng thái hậu. Năm Đinh mão (1807), bà được 70 tuổi đức Thế Tổ làm lễ mừng thánh thọ.

        Bà người ônnhu, đoan trang và thương yêu mọi người, đối với anh chị bà là Từ phi lại càng thân thiết. Bà Từ phi lâm bệnh nặng gặp lúc bà đau, đức Thế Tổ không dám tâu lên. Đến khi bà Từ phi mất bà mới biết, bà giận không chịu ăn cơm. Khi đức Thế Tổ đến thăm, bà nói : "Thân già này chỉ có một bà chị, lúc đau ốm không được thấy mặt viè thế mà ăn không ngon, ngủ không yên". Đức Thế Tổ quì dưới thềm xin lỗi và an ủi mãi bà mới chịu dùng cơm.

        Năm Tân mùi (1811) bà đau nặng. Trước đó có sao chổi mọc, người hầu tâu chuyện, bà không được vui. Có đêm ra xem rồi bảo người hầu : "Sao chổi hiện ra ứng vào thân già này."

        Bà mất ngày 14 tháng 9 Tân mùi (30-10-1811), thọ 74 tuổi. Lăng táng tại làng Đình Môn, (Hương Trà, Thừa Thiên), tên lăng là Thụy Thánh. Đức Thế Tổ tôn thụy là : "Ý Tĩnh Huệ Cung An Trinh Từ Hiếu Khang Hoàng Hậu."

        Bà sinh được ba người con trai là Hải Đông Quận vương Nguyễn Phúc Đồng, Thế Tổ Cao Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ánh, Thông Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Điền và một người con gái là Long Thành Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Tú.

        Năm Quí dậu (1813) thần chủ bà được rước về phối thờ với dức Hưng Tổ tại Hưng Miếu.

       10.3.1.1 Nguyễn Thị (khuyết danh) (Từ phi)
                   
Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Hậu

        Bà là chị Hiếu Khang Hoàng Hậu. Lúc biến loạn năm Giáp ngọ (1774) bà ẩn náu trong dân gian. Mùa xuân năm Kỷ hợi (1779) đức Thế Tổ sai người rước về Gia Định ở cùng với Hiếu Khang Hoàng Hậu. Năm Nhâm tuất (1802) bà được rước về Kinh đô, ở sau cung Trường Thọ.

        Bà mất năm Đinh mão (1807), ngày tháng mất không rõ, được phong tặng : "Ý Thân Huy Gia Từ Phi". Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Trà, Thừa Thiên). Nhà thờ ở làng Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên). Năm Giáp thìn (1844), thần chủ bà được rước về thờ tại nhà thờ Phúc Lộc Thái Trưởng Công chúa.

        Bà sinh được 3 người con trai là Tương Dương Quận vương Nguyễn Phúc Hạo, người con thứ hai mất sớm, không rõ tên và An Biên Quận vương Nguyễn Phúc Mân và 2 người con gái là Phúc Lộc Công chùa Nguyễn Phúc Ngọc Du và Minh Nghĩa Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền.

               10.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ

                            Đức Hưng Tổ có 6 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ

             Hoàng tử

        Hoàng nữ
   
1. Nguyễn Phúc Hạo 1. Nguyễn Phúc Ngọc Tú
2. Nguyễn Phúc Đồng 2. Nguyễn Phúc Ngọc Du
3. Nguyễn Phúc Ánh 3. Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền
4. (Khuyết danh) 4. Nguyễn Phúc Ngọc Dụ
5. Nguyễn Phúc Mân  
6. Nguyễn Phúc Điển  
   

              10.3.3  Anh chị em
                          
Ngài có 17 anh em và 12 chị em gái

                            (Xem phần này ở "Đức Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế")


(1) Theo truyền thuyết khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ n1n xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy một cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngai cho đòi Ngọc Huyên bào chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người). Cha con Huyên đều được vua trọng thưởng. Đời vua Minh Mệnh, Huyên được lập đền thờ ở xã Cư Chính và được phong là An Ninh Bá.


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên Nguyễn Thị Hoàn- Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Hậu
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh
Sự nghiệp, công đức, ghi chú
    10.3.1.1 Nguyễn Thị Hoàn
                   
Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Hậu

        Bà húy là Nguyễn Thị Hoàn, người làng Minh Linh tỉnh Thừa Thiên. Ngày tháng Năm sinh không rõ. Bà là con của Diễn Quốc công Nguyễn Phúc Trung, bà mẹ họ Phùng (không rõ tên).

        Năm Kỷ hợi (1779), khi quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân, bà ra ở ẩn tại làng An Du, nơi quê ngoại. Khi đức Thề Tổ khôi phục được đất Gia Định, được các tướng tôn làm Đại Nguyên Súy Nhiếp Quốc Chính, bà được rước vào Gia Định và được tôn làm Quốc mẫu. Khi quân Tây Sơn tấn công Sài Côn (Sài Gòn) bà và đức Thế Tổ phải chạy ra Phú Quốc. Địch lại tiến đánh Phú Quốc, đức Thế Tổ phải chạy ra Côn Lôn, thuyền trôi dạt trên biển mấy ngày, khổ cực đáng cay muôn vàn. May nhờ gặp được nguồn nước ngọt ở giữa biển, đức Thế Tổ mới thoát nạn. Khi đức Thế Tổ về lại Phú Quốc, thuật lại sự tình khốn đốn vừa qua, bà bảo rằng : "Giữa biển lại có nước ngọt, thế là trời giúp chúng ta, con chớ nên lấy sự khó nhọc làm nản chí." Đức Thế Tổ lạy tạ và nói rằng : "Con kính cẩn tuân lời mẹ dạy". Năm Ất tỵ (1785) bà phải lánh sang Xiêm. Năm Đinh mùi (1787), bà trở về Phú Quốc. Năm Mậu thân (1788), bà về lại Gia Định. Mùa đông tháng 10 năm Bính thìn (1796), đức Thế Tổ dẫn quần thần mang kim sách, kim bửu dân lên, tôn bà làm Quốc mẫu Vương thái phi. Năm Nhâm tuất (1802), bà được phụng nghinh về kinh thành. Năm Quí hợi (1803), đức Thế Tổ tôn bà làm Vương thái hậu và cho xây cung Trường Thọ để bà ở. Năm Bính dần (1806) đức Thế Tổ lên ngôi Hoàng Đế, tôn bà làm Hoàng thái hậu. Năm Đinh mão (1807), bà được 70 tuổi đức Thế Tổ làm lễ mừng thánh thọ.

        Bà người ônnhu, đoan trang và thương yêu mọi người, đối với anh chị bà là Từ phi lại càng thân thiết. Bà Từ phi lâm bệnh nặng gặp lúc bà đau, đức Thế Tổ không dám tâu lên. Đến khi bà Từ phi mất bà mới biết, bà giận không chịu ăn cơm. Khi đức Thế Tổ đến thăm, bà nói : "Thân già này chỉ có một bà chị, lúc đau ốm không được thấy mặt viè thế mà ăn không ngon, ngủ không yên". Đức Thế Tổ quì dưới thềm xin lỗi và an ủi mãi bà mới chịu dùng cơm.

        Năm Tân mùi (1811) bà đau nặng. Trước đó có sao chổi mọc, người hầu tâu chuyện, bà không được vui. Có đêm ra xem rồi bảo người hầu : "Sao chổi hiện ra ứng vào thân già này."

        Bà mất ngày 14 tháng 9 Tân mùi (30-10-1811), thọ 74 tuổi. Lăng táng tại làng Đình Môn, (Hương Trà, Thừa Thiên), tên lăng là Thụy Thánh. Đức Thế Tổ tôn thụy là : "Ý Tĩnh Huệ Cung An Trinh Từ Hiếu Khang Hoàng Hậu."

        Bà sinh được ba người con trai là Hải Đông Quận vương Nguyễn Phúc Đồng, Thế Tổ Cao Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ánh, Thông Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Điền và một người con gái là Long Thành Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Tú.

        Năm Quí dậu (1813) thần chủ bà được rước về phối thờ với dức Hưng Tổ tại Hưng Miếu.

 

Tên Nguyễn Thị (khuyết danh) (Từ phi)-Hưng Tổ Hiếu Khang Ho
Tên thường
Tên tự
Ngày sinh
Sự nghiệp, công đức, ghi chú
10.3.1.1 Nguyễn Thị (khuyết danh) (Từ phi)
                   
Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Hậu

        Bà là chị Hiếu Khang Hoàng Hậu. Lúc biến loạn năm Giáp ngọ (1774) bà ẩn náu trong dân gian. Mùa xuân năm Kỷ hợi (1779) đức Thế Tổ sai người rước về Gia Định ở cùng với Hiếu Khang Hoàng Hậu. Năm Nhâm tuất (1802) bà được rước về Kinh đô, ở sau cung Trường Thọ.

        Bà mất năm Đinh mão (1807), ngày tháng mất không rõ, được phong tặng : "Ý Thân Huy Gia Từ Phi". Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Trà, Thừa Thiên). Nhà thờ ở làng Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên). Năm Giáp thìn (1844), thần chủ bà được rước về thờ tại nhà thờ Phúc Lộc Thái Trưởng Công chúa.

        Bà sinh được 3 người con trai là Tương Dương Quận vương Nguyễn Phúc Hạo, người con thứ hai mất sớm, không rõ tên và An Biên Quận vương Nguyễn Phúc Mân và 2 người con gái là Phúc Lộc Công chùa Nguyễn Phúc Ngọc Du và Minh Nghĩa Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền.


Các anh em, dâu rể:
   Nguyễn Phúc Chương(26/4/1732-27/11AL-1763)
   Nguyễn Phúc Mão(23/2/1734-1774)
   Nguyễn Phúc Cường(4/4-1735-1775)
   Nguyễn Phúc Dực(1/10/1735-22/1AL-17?)->con bà Dung
   Nguyễn Phúc Chất(13/5/1737-10/6AL-1777)
   Nguyễn Phúc Kính(15/10/1737-19/2AL-1775)
   Nguyễn Phúc Ban(24/5/1739-10/11AL-17?)->con bà Xạ
   Nguyễn Phúc Hạo(27/12/1739-18/2AL-17690)
   Nguyễn Phúc An(2/8/1740-11/2AL-1772)->con bà Trúc
   Nguyễn Phúc Tuấn(28/8/1743-23/4AL-1764)
   Nguyễn Phúc Yến(26/10/1743-15/3AL-1776)->con bà Xạ
   Nguyễn Phúc Đạn(26/2/1744-16/1AL-1786)->con bà Thanh
   Nguyễn Phúc Quyền(2/6/174-?)->ko con
   Nguyễn Phúc Diệu(1753-17?)->bị loạn luân)
   DUỆTÔNGHIẾUĐỊNHHOÀNGĐẾ-Nguyễn Phúc Thuần(bị
   Nguyễn Phúc Xuân(1/12/1757-19/11AL-1780)
   Nguyễn Phúc Thăng(21/12/1762-8/6AL-1819)->con bà Quyên
   Nguyễn Phúc Ngọc Tuyên(1738-1809)-Nguyễn Cửu Thống
   Nguyễn Phúc Ngọc Nguyện(1726-1773)-Trương Phúc Thăng
   Nguyễn Phúc Ngọc Thành(1740-1783)-Nguyễn Cửu Quản
   Nguyễn Phúc Ngọc Ái (1743-1775)-Nguyễn Cửu Sách
   Nguyễn Phúc Ngọc Muội (1749-1825)-Trương Phúc Đạo
   Nguyễn Phúc Ngọc Quận-Tống Phúc Khuông
   Nguyễn Phúc Ngọc Thụ (1729-1775)-Trương Phúc Nhạc
   Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến- Nguyễn Cửu Tú
   Nguyễn Phúc Ngọc Dao->con bà Trương
   Nguyễn Phúc Ngọc...-chồng: Chiểu (Cai đội)
   Nguyễn Phúc Ngọc Cơ
   Nguyễn Phúc Ngọc...-chồng: Tín (Cai cơ)
Con cái:
       Nguyễn Phúc Hạo (?-18/7AL-?)->ko con
       Nguyễn Phúc Ngọc Tú (1759-11/1828)->ko con
       ĐỨC THẾ TỔ CAO HOÀNG ĐẾ Nguyễn Phúc Ánh(1762-1820)
       Nguyễn Phúc Đồng(176?-18/9AL-1777)->ko con
       Nguyễn Phúc....
       Nguyễn Phúc Mân(17?-24/2AL-1783)->ko con
       Nguyễn Phúc Thiển(17?-6/1783)->ko con?
       Nguyễn Phúc Ngọc Du(1762-1820)-Vũ Tính
       Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền(1764-1782)-Nguyễn Hữu Thụy->ko con
       Nguyễn Phúc Ngọc Uyển (1766-1810)-Tống Phúc Tín
Gia Phả; HẬU DUỆ VUA GIA LONG-Cà Mau
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA GIA LONG-Cà Mau.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA GIA LONG-Cà Mau
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.