[sửa] Thân thế & sự nghiệp
Võ Tánh sinh tại huyện Phước An, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), sau dời về huyện Bình Dương, Gia Định.
Vì không chịu thần phục nhà Tây Sơn, ông cùng với người anh là Võ Nhàn tập hợp lực lượng nổi dậy tại thôn Vườn Trầu (Hóc Môn), tự xưng là Nghĩa quân Kiến Hòa, rồi kéo quân chiếm giữ cả vùng Gò Công.
[sửa] Theo chúa Nguyễn
Năm 1788, ông theo Nguyễn Ánh, được phong là Tiên phong dinh Khâm sai chưởng cơ, được chúa Nguyễn Phúc Ánh gả cho em gái là Ngọc Du.
Năm 1790, Võ Tánh tiến đánh thành Diên Khánh chiếm được phủ thành, đánh bại tướng Tây Sơn là Đào Văn Hồ.
Năm 1793, Võ Tánh được thăng chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ Giá. Khi trấn thủ thành Diên Khánh, Võ Tánh dùng mưu đuổi quân Tây Sơn đến vây thành vào năm 1794. Sau đó ông được phong tước Quận Công kiêm lãnh chức Đại Tướng Quân.
Năm 1797, ông theo Nguyễn Ánh ra đánh Quảng Nam. Thừa thắng, ông vượt qua sông Mỹ Khê (Quãng Ngãi) đánh bại Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Giáp.
Năm 1799, ông lại theo chúa Nguyễn tiến đánh Quy Nhơn. Vào cửa biển Thị Nại, Võ Tánh và Chưởng Hữu Quân Nguyễn Huỳnh Đức đánh thắng quân Tây Sơn tại Thị Giả, rồi giết được Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Thiệt tại cầu Tân An. Đô Đốc Lê Chất xin hàng, xin làm thuộc tướng của Võ Tánh. Ông chặn đánh quân của Thái Phó Tây Sơn là Lê Văn Đang tại làng Kha Đạo, bắt được 6000 quân Tây Sơn và 50 thớt voi. Các tướng Tây Sơn là Lê Văn Thanh và Nguyễn Đại Phát phải mở cửa thành Qui Nhơn xin hàng. Thành Quy Nhơn được đổi tên là thành Bình Định (kinh đô Chà Bàn cũ của người Chăm).
[sửa] Tuẫn tiết
Năm 1801, khi quân Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định, giao thành Bình Định cho ông và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ. Ông cùng Ngô Tùng Châu cố giữ thành cầm chân quân Tây Sơn để Nguyễn Ánh ra lấy lại đất Thuận Hoá. Thành Bình Định ngay sau đó bị đại quân Tây Sơn, dưới quyền chỉ huy huy của Thái Phó Trần Quang Diệu và tướng Võ Văn Dũng đến bao vây. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân vây bốn mặt, Võ Văn Dũng thì đôn đốc thủy quân phòng giữ cửa Thị Nại.
Võ Tánh và Ngô Tùng Châu sai người lén đem mật thư ra cho Nguyễn Phúc Ánh khuyên ông kéo quân ra đánh Phú Xuân. Chúa Nguyễn nghe theo, và tháng 5 năm Tân Dậu (1801) đánh lấy được Phú Xuân.
Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu. Quân ra tới Quảng Nam thì bị chặn đường phải trở lui. Trần Quang Diệu nổi giận đốc quân đánh thành luôn ngày đêm.
Cuộc bao vây kéo dài đến 14 tháng. Trong thành binh sĩ lâu ngày thiếu lương thực, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây trốn thoát, nhưng ông cương quyết ở lại "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng?".
Ông sau đó cho người trao cho Trần Quang Diệu một bức thư, xin tha chết cho quân sĩ trong thành. Ông sai thuộc hạ lấy rơm củi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào, rồi châm ngòi tự hỏa thiêu. Ngô Tùng Chu cũng dùng thuốc độc tự vẫn.
Võ Tánh mất vào ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu, tức vào ngày 7 tháng 7 năm 1801.
Khi chiếm được thành, Trần Quang Diệu tỏ ra xúc động trước sự trung dũng của Võ Tánh và Ngô Tùng Chu, sai người tẩm liệm thi hài hai ông tử tế, rồi theo lời yêu cầu của Võ Tánh, không giết hại hàng binh nhà Nguyễn.
Không lâu sau, Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đem đại binh ra đánh quân Tây Sơn tại Thị Nại năm 1801. Đây là trận thủy chiến lớn nhất của cuộc chiến tranh Tây Sơn.
Năm 1802, khi Nguyễn Ánh đã chiếm được Phú Xuân, Tây Sơn lại mất Trấn Ninh, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng phải bỏ thành về cứu vua Cảnh Thịnh...[1]
[sửa] Di sản
Võ Tánh là điển hình cho sự kết nối giữa các yếu tố mang tính chất tiềm năng vốn có của xã hội Việt Nam ở Nam Bộ với các nhân tố mang tính chất thời đại nảy sinh trong lịch sử nội chiến cuối thế kỷ XVIII ở Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà trong các đại tướng Bình Tây tướng quân Trung hưng công thần của triều Nguyễn chỉ có Hoài quốc công Võ Tánh được truy tặng tước quốc công, vượt lên tất cả những Lâm Thao quận công Châu Văn Tiếp, Bình Giang quận công Võ Di Nguy, Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhơn, Kiến Xương quận công Nguyễn Huỳnh Đức, Tiên Hưng quận công Phạm Văn Nhân, Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương, Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên, Ninh Giang quận công Tống Viết Phước...
- Trước cái chết anh dũng của Võ Tánh, người dân Bình Định đã lưu truyền câu hát dưới đây:
- Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên
- Cảm thương quan Hậu thủ thành ba năm!
- Về sau, vua Gia Long sai đưa hài cốt ông vào táng ở Phú Nhuận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Vua Gia Long truy tặng Võ Tánh là Dực vận công thần, Thái úy Quốc công, tùng tự nơi nhà Thái miếu. Năm Minh Mạng thứ 12, nhà Nguyễn truy phong Hoài Quốc Công.
[sửa] Chú thích
- ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược t. 2, Trung tâm Học liệu, Sài Gòn, 1971, tr. 163.
- ^ Mộ Võ Tánh hình tròn trên có đắp biểu tượng một con dơi, nằm kề bên mộ Ngô Tùng Châu hình chữ nhật (đây là mộ giả vì thi hài Ngô Tùng Châu đã được đưa về chôn ở Phù Cát). Theo Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa, Nxb TP. HCM, 1991, tr. 189) và nguồn ở đây [1] thì thân thể Võ Tánh đã bị cháy hết. Như vậy, mộ ở thành Bình Định và mộ ở Phú Nhuận, đều chôn hình nhơn bằng sáp. Khu mộ nằm trên nền cũ của nội cung thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc, cũng là thành Đồ Bàn của vua Chăm xưa.
[sửa] Nguồn tư liệu
|